09/02/2022
Tổng hợp: ThS. Nguyễn Lê Thy Thương, Phòng NC Lịch sử-Văn hóa và Chính trị, Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á (tổng hợp từ nhiều nguồn)
Nghiệp là khái niệm phổ quát trong một số tôn giáo lớn đã hoặc đang tồn tại ở Ấn Độ như Hindu giáo, Phật giáo và Kỳ Na giáo (Jainism). Đã có nhiều nghiên cứu so sánh về sự tương đồng và khác biệt của khái niệm này trong các tôn giáo kể trên, nhưng do tính phức tạp của khái niệm, nên những hiểu biết về Nghiệp đôi khi vẫn còn mông lung và khó hiểu. Cần lý giải quan điểm khác nhau của các tôn giáo về Nghiệp đồng thời đưa ra một vài so sánh nhằm giúp độc giả dễ dàng hơn trong tiếp cận khái niệm này, không chỉ như một phạm trù tôn giáo – triết học cổ xưa mà còn như một triết lý sống đáng để suy ngẫm và học hỏi.
Phần 1: Khái niệm Nghiệp trong Hindu giáo
Thuật ngữ Karma (Nghiệp) là một phần quan trọng trong hệ thống triết học Hindu giáo. Thuật ngữ này đã xuất hiện trong các bộ kinh Veda, Upanishad, một trong những minh họa đầu tiên và ấn tượng nhất về Nghiệp có thể được tìm thấy trong bộ sử thi vĩ đại Mahabharata. Karma theo nghĩa đen có nghĩa là hành động hoặc hành vi. Karma là quy luật của hành động và quy luật này chi phối ý thức của con người. Quan niệm ban đầu của tín đồ Hindu giáo về nghiệp đã được chuyển đổi thành các thực hành tôn giáo và sau đó được phát triển bởi một số hoạt động khác, đáng chú ý nhất là Vedanta, Yoga và Tantra.
1. Thế nào là Nghiệp?
Nghiệp là quy luật của tự nhiên, là một hiện tượng trong vũ trụ, đồng thời cũng là một phần của cuộc sống trong các chiều không gian và thời gian khác nhau. Nội dung của Nghiệp thực ra rất đơn giản: Hành động sẽ sinh ra hệ quả, hệ quả là một phần của hành động và hệ quả đến sau hành động. Có thể minh họa như sau: đau khổ không phải là hậu quả của một hành vi sai trái, mà là một phần thực tế của hành vi đó mặc dù nó chỉ được trải nghiệm sau khi hành vi đó đã diễn ra. Đôi khi một người lính bị thương trong trận chiến nhưng không cảm thấy đau đớn ngay lúc đó mà chỉ thấy đau sau khi trận chiến đã kết thúc. Theo cách này, một người không cảm thấy day dứt ngay khi phạm tội nhưng sẽ day dứt về sau này. Sự đau đớn không tách rời khỏi vết thương cũng giống như hơi nóng không tách rời khỏi ngọn lửa, mặc dù nó chỉ được trải nghiệm về sau.
Thông qua lý thuyết về Nghiệp, những tín đồ Hindu giáo tin rằng mọi hành động của họ đều gây ra hậu quả tốt hoặc xấu. Họ có thể gặt hái phần thưởng cho những hành động tốt của họ trong cuộc sống hiện tại này, hoặc trong một cuộc sống tương lai nơi họ được tái sinh, hay ở một thiên đường hoặc địa ngục mà họ phải tạm thời trú ngụ.
Cũng theo Hindu giáo, nếu một người thực hiện các hành động sùng đạo, người đó có thể tích lũy được những nghiệp tốt và kiếp sau sinh ra trong những điều kiện tốt hơn, có thể tận hưởng cuộc sống của mình với phúc lộc trời ban mà không gặp bất kỳ khó khăn nào. Tuy nhiên, nếu không tiếp tục sùng đạo, một khi những phúc báo này cạn kiệt, người đó sẽ lại tiếp tục rơi vào vòng trầm luân.
Người ta tin rằng, nếu một người vi phạm các quy luật phổ quát mà các thần linh đã tạo ra, linh hồn của người đó sẽ bị giáng cấp xuống địa vị của những loài thấp hơn. Chỉ bằng cách thanh lọc dần dần (và bằng sự đau khổ), người đó mới có thể sống lại với thân phận con người. Khi ở trong thân xác của một giống loài thấp hơn, linh hồn của người đó không thể thực hiện ý chí tự do. Tình trạng này ít nhiều giống như việc họ đã bị kết án.
Chiêm tinh học Hindu, hay Jyotisha cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa số phận con người với hệ mặt trời và một số cụm sao, nhưng đó không phải là mối quan hệ nhân - quả. Các hành tinh và các ngôi sao không gây ra hoặc điều khiển nghiệp nhưng chúng có các mối quan hệ thiết lập quỹ đạo và tạo ra các điều kiện thích hợp cho các nghiệp xảy ra. Những điều kiện này kích hoạt và truyền cảm hứng cho một loại bản chất nhân cách cụ thể nào đó phát triển trong chúng ta. Jyotisha sẽ tiết lộ các mô thức Nghiệp của prarabdha cho một lần chúng ta được sinh ra và cách chúng ta sẽ đón nhận và phản ứng với chúng (Nghiệp Kriyamana). Với kiến thức chiêm tinh, chúng ta nhận thức được mô hình Nghiệp báo của cuộc đời mình và từ đó có thể dự đoán nó một cách khôn ngoan.
Nghiệp của một cá nhân được thể hiện qua ba yếu tố là Ham muốn, Tri thức và Hành động (Desire, Knowledge and Action) của họ, trong đó mỗi yếu tố vận hành theo một quy luật cụ thể[1]. Ham muốn đứng sau, kích thích và chỉ đạo tư tưởng. Tư tưởng do đó được truyền năng lượng và được xác định bởi ham muốn. Tư tưởng lại chỉ đạo hành động, hay nói cách khác Hành động là sự thể hiện của Tư tưởng trong thế giới vật chất. Bản chất của con người dựa trên ham muốn, ham muốn chỉ đạo suy nghĩ, suy nghĩ tạo nên hành động, và khi hành động người ta sẽ đạt được một điều gì đó.
Do đó, quy luật của Nghiệp được tạo thành từ ba quy luật sau:
1. Sự ham muốn hướng con người đến những đối tượng mà họ ham muốn, và do đó quyết định các xu hướng hành động trong tương lai của họ.
2. Tư tưởng, trí tuệ là sức mạnh sáng tạo, khiến con người trở thành chính những gì mà họ nghĩ đến. Trí óc quyết định tính cách của họ.
3. Hành động tạo nên hoàn cảnh.
Tín đồ Hindu giáo có niềm tin mãnh liệt về nghiệp. Họ tin rằng số phận con người là do nghiệp báo định đoạt. Số phận của con người được tạo nên từ các yếu tố: cơ hội, tính cách, khả năng và hoàn cảnh (môi trường xung quanh). Thông qua lý giải ở phần sau, chúng ta sẽ thấy rằng những yếu tố này bị chi phối bởi Nghiệp.
Nghiệp được cho là có ba loại: Prarabdham, Sanchitarm và Vartamanam. Prarabdha là nghiệp đã chín muồi và không thể tránh khỏi, Prarabdha chỉ kết thúc khi chúng ta đã nếm trải đầy đủ về nó. Sanchita là nghiệp tích lũy trong quá khứ và được nhìn thấy một phần trong tính cách của một con người, thể hiện ở sức mạnh, điểm yếu và năng lực của họ. Còn Vartamana là nghiệp đang được chúng ta tạo ra trong hiện tại[2].
Nghiệp Prarabdha là nghiệp đã bắt đầu. Trong văn học Vệ Đà, đôi khi nó được so sánh với một mũi tên đã được bắn ra. Nó không thể thay đổi trong phạm vi của một kiếp sống, vì nó chính là sự khởi đầu, hay sự thiết lập của kiếp sống đó. Đó là nghiệp từ kiếp trước của mỗi người, hay còn gọi là nghiệp từ tiền kiếp. Sau khi chết, linh hồn rời khỏi cơ thể, giống như trút bỏ đi những bộ quần áo cũ, và mang theo nó những luân hồi (ấn tượng) của kiếp trước về những suy nghĩ, hành động và sự kiện. Những luân hồi này tự thể hiện trong hoàn cảnh không thể thay đổi mà một người được sinh ra và trong cả những sự kiện quan trọng nhất định mà họ sẽ trải qua trong cuộc đời. Chúng bao gồm ngày sinh thậm chí là ngày mất của một người, tình trạng xuất thân, gia thế của người đó… Do đó, việc "những điều xấu xảy ra với người tốt" là kết quả của nghiệp Prarabadha.
Nghiệp Sanchita là nghiệp được tập hợp, thu thập và kết dính với nhau tạo nên những khuynh hướng tính cách của một người. Những ấn tượng mà một người thừa hưởng từ tiền kiếp sẽ tạo nên tính cách, thiên hướng, tài năng - những thứ tạo nên đặc trưng cá nhân của họ. Nói cách khác, sở thích, khả năng, thái độ và khuynh hướng của một người dựa trên những suy nghĩ và hành động trong tiền kiếp của họ. Nghiệp Samchita có thể thay đổi được khi chúng ta thực sự nỗ lực. Những hoạt động trong Hindu giáo, như Yoga chẳng hạn, có thể giúp chúng ta thực hiện điều này. Ví dụ, một người thông qua thiền định có thể dần dần điều chỉnh tính cách của mình.
Nghiệp Vartamana là thực tế, là hiện tại và đang được tạo ra cho tương lai, hay còn gọi là Agami, nghiệp sắp tới. Đó là nghiệp của kiếp sống hiện tại mà chúng ta có toàn quyền kiểm soát. Thông qua Vartamana, một người sẽ tạo nên nghiệp của mình trong tương lai.
Đôi khi, tín đồ Hindu giáo nói về các loại nghiệp khác nhau nhưng nhiều người trong số họ không ý thức về các loại nghiệp và khó có thể phân biệt rằng một sự kiện nào đó trong đời họ là do nghiệp Prarabadha hay nghiệp Agami gây ra.
Những ngộ nhận về Nghiệp
Liên quan đến Nghiệp, có người sẽ nghĩ rằng: Nếu nghiệp của tôi đã định sẵn là xấu hay tốt, được làm cái này hay không được làm cái kia và buộc phải như vậy, thì tại sao tôi còn phải nỗ lực hay cố gắng? Điều này thực chất là một ngụy biện có thể dẫn đến những hiểu nhầm tai hại về bản chất của Nghiệp. Nỗ lực là một phần của Nghiệp. Nghiệp không phải là một cái gì đó đã hoàn thành đang chờ đợi chúng ta, mà là một sự vận hành liên tục, trong đó tương lai không chỉ được định hình bởi quá khứ mà đang được sửa đổi bởi hiện tại. Nếu một người muốn trở nên tốt đẹp, người đó đang tạo ra nguồn năng lượng hướng họ đến những điều tốt đẹp, cho dù hiện tại họ có thể xấu xa.
Một quan niệm sai lầm khác là khi chứng kiến một người đang gặp khó khăn, chúng ta nghĩ rằng họ đang gánh chịu nghiệp xấu do họ tạo ra, và nếu giúp họ chúng ta đang can thiệp vào Nghiệp của họ. Thực tế là, mỗi người này có thể là một tác nhân gây ra nghiệp của người kia, cũng đồng thời là một trải nghiệm của chính mình. Nếu chúng ta có thể giúp đỡ một người nào đó, thì đó là bằng chứng cho thấy rằng nghiệp xấu mà họ phải chịu đã hết, và chúng ta là tác nhân mang lại cho họ sự giải thoát. Chúng ta tạo nên nghiệp tốt khi giúp đỡ người khác và do đó đảm bảo cho chính mình được giúp đỡ khi chúng ta gặp phải những khó khăn sau này.Nếu chúng ta từ chối giúp đỡ người khác, chúng ta đang tạo ra nghiệp xấu cho chính mình, tự khiến cho mình không nhận được sự giúp đỡ trong tương lai.
Nghiệp thường bị ngộ nhận là định mệnh. Thực tế không phải vậy. Định mệnh là điều không thể thay đổi được định đoạt từ lâu bởi một số thế lực bên ngoài đối với con người như các hành tinh và các vì sao, hay có lẽ là các vị thần. Nhưng nghiệp không phải là định mệnh cũng không phải là sự xác định trước. Mỗi một linh hồn đều có ý chí tự do tuyệt đối. Ranh giới duy nhất của nó là nghiệp. Các vị thần không ra lệnh cho các sự kiện xảy ra trong của cuộc sống con người và không có lực lượng nào trong vũ trụ nhào nặn nên sự sống của con người. Nhưng thông qua sự cầu nguyện và thờ phụng thành kính, Đấng Tối cao và các vị thần có thể làm giảm nhẹ tác động của nghiệp xấu hoặc khiến cho nghiệp này xảy ra vào giai đoạn mà mà chúng ta đã chuẩn bị tốt hơn để giải quyết nó.
Mỗi con người có hàng ngàn cuộc sống trên trái đất. Chúng ta trải nghiệm các hình thức khác nhau hoặc nhiều kiểu sống khác nhau. Chúng ta thường xuyên chuyển đổi qua lại từ đời này sang đời khác. Chúng ta đến trái đất với các vai trò khác nhau dưới các hình thức khác nhau, chúng ta có thể là công chúa hay tổng thống, kẻ ăn cướp hay cảnh sát, kẻ giết người hay thầy thuốc, những kẻ vô thần hay những nhà hiền triết được thần linh soi đường. Chúng ta có thể có nhiều chủng tộc và sống theo nhiều tôn giáo, đức tin và triết lý khác nhau, khiến cho linh hồn chúng ta tích thêm kiến thức và kinh nghiệm để tiến hóa[3].
Do đó, những tín đồ Hindu giáo đều biết rằng không thể chỉ có một dạng sống duy nhất trên trái đất, và cũng hoàn toàn không có một cuộc sống chỉ có niềm vui hay nỗi đau vĩnh cửu. Quan điểm sai lầm này sẽ gây ra sự lo lắng, bối rối và sợ hãi. Tín đồ Hindu giáo tin rằng tất cả các linh hồn đều được đầu thai. Chúng ta trải qua dạng cơ thể này rồi dạng cơ thể khác, phát triển qua các trải nghiệm trong một thời gian dài. Nghiệp không chỉ vận hành trong kiếp này mà còn xuyên suốt nhiều kiếp. Kết quả của một hành động có thể được trải nghiệm trong một cuộc sống mới sau cuộc sống hiện tại.
Quá trình chuyển kiếp này được gọi là luân hồi, hay một vòng tuần hoàn liên tục, trong đó linh hồn được tái sinh lặp đi lặp lại theo quy luật hành động và phản ứng. Nhiều người theo Hindu giáo tin rằng, lúc chết và sau khi chết, linh hồn được một thể xác vi tế đưa sang một cơ thể vật chất mới. Cơ thể vật chất này là một dạng người hoặc không phải người (động vật hoặc thần thánh). Mục tiêu của sự giải thoát (moksha) là làm cho chúng ta thoát khỏi chu kỳ hành động và phản ứng này, và thoát khỏi sự sinh ra và tái sinh. Một con người không thể được giải thoát cho đến khi người đó đã hoàn thành tất cả các nghiệp của mình.
Điều này rất giống với thuyết Niết bàn của Phật giáo. Niềm tin vào nghiệp báo và luân hồi mang đến cho mỗi người theo Hindu giáo sự bình an và tự tin trong tâm hồn. Điều đó cũng duy trì kỷ luật hành động của họ. Họ tin rằng sự trưởng thành của tâm hồn phải mất nhiều kiếp. Nếu hiện tại tâm hồn còn “non nớt” thì vẫn còn hy vọng, vì sẽ còn nhiều cơ hội học tập và trưởng thành trong cuộc sống mai sau. Niềm tin này giúp cho họ bớt đi muộn phiền lo lắng, và họ ý thức một cách mạnh mẽ rằng mọi thứ đều ổn thỏa như nó vốn phải vậy. Điều này cũng giúp cho họ có một cái nhìn sâu sắc về thân phận con người trong tất cả các giai đoạn phát triển tâm linh.
Bhagvad Gita (Chí Tôn Ca) đã nói như sau về việc hết nghiệp và đạt được trạng thái Brahma: Người nào thoát khỏi dính mắc, người đó được giải thoát, tâm trí của họ được thiết lập trong tri thức, họ có hành động nhưng chỉ là hành động hy sinh, thì nghiệp của người đó hoàn toàn tan biến[4].
Nghiệp hoạt động trong một vòng tuần hoàn khép kín, nơi mà mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ được tạo ra để rồi cuối cùng lại tan biến, giống như những ảo ảnh hay ma thuật (Maya) tác động vào Đại Ngã (Brahman). Vì vậy, người ta tin rằng nghiệp cuối cùng sẽ được giải quyết, nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta đã tạo nên nghiệp gì, vì kết quả/quả báo chúng ta nhận được sẽ tương ứng với nghiệp đó. Theo Hindu giáo, thông qua sự sùng kính các bậc thần linh, chúng ta có thể vượt qua những nghiệp chướng của mình và được giải thoát nhanh hơn, bởi chúng ta được giúp đỡ bằng tình yêu thương của các vị thần. Tất cả những người tu luyện yoga (thiền định) trong Hindu giáo đều tìm cách vượt qua nghiệp chướng thông qua các con đường chứng ngộ khác nhau.
[1] Landon, A. E. (2003). Reincarnation Magazine, January 1917 to December 1918.Body, Mind and Spirit, US: Kessinger Publishing.
[2] Landon, A. E. (2003). Reincarnation Magazine, January 1917 to December 1918.Body, Mind and Spirit, US: Kessinger Publishing.
[3] Lockyer, Lianne. (2009). Angelic Karma, UK, Arthur House.
[4] Bhagavad-Gita Ch 4: Verse 23 and 24.