11/12/2017
Thực hiện Quyết định số 2052/QĐ-KHXH ngày 28/11/2017 và Quyết định số 1976/QĐ-KHXH ngày 15/11/2017 về việc cử cán bộ đi công tác nước ngoài của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, đoàn công tác Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á bao gồm: PGS. TS. Nguyễn Xuân Trung, Viện trưởng, PGS. TS. Ngô Xuân Bình, Nguyên Viện trưởng, TS. Lê Thị Hằng Nga, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Ấn Độ và châu Á, Trưởng phòng NC Lịch sử-Văn hóa đã đi công tác tại Ấn Độ từ ngày 01 đến ngày 08/12/2017.
Trong thời gian tại Ấn Độ, Đoàn đã đến thăm và làm việc với Đại học Madras, Chennai và Đại học Sri Venkateswara, Tirupati; tham dự Hội thảo quốc tế về chủ đề “Ấn Độ - ASEAN hướng tới quan hệ đối tác lớn hơn”, tham quan khảo sát tại Chennai và Tirupati.
Đoàn công tác Viện cùng Đoàn Ấn Độ
Tại Chennai, Đoàn đã có buổi tiếp xúc với GS. P. Duraisamy, Phó Hiệu trưởng (Vice-Chancellor) Đại học Madras. GS. P. Duraisamy bày tỏ sự vui mừng đón tiếp đoàn và sẵn sàng hợp tác liên quan đến trao đổi sinh viên, học giả, chương trình nghiên cứu. GS. Duraisamy đề xuất việc ký kết MOU giữa hai bên để tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hợp tác. GS. Duraisamy cho biết, việc ký kết MOU ở Đại học Madras phải tuân thủ một số thủ tục. Sau khi hai bên thống nhất về nội dung MOU, bản thảo sẽ được gửi lên cơ quan pháp lý để duyệt. Sau khi cơ quan pháp lý thông qua, phía Đại học Madras sẽ ký vào MOU và gửi sang cho phía Việt Nam 02 bản để ký, sau đó phía Việt Nam giữ lại 1 bản và gửi 1 bản sang cho Ấn Độ, quá trình này thường mất khoảng 3 tuần.
Tại buổi tiếp xúc, hai bên cũng trao đổi về việc phối hợp tổ chức hội thảo quốc tế, trong đó có mời các học giả đến từ Lào, Campuchia, Myanmar… nhằm hiện thực hóa chương trình nghiên cứu về sự kết nối văn hóa lịch sử giữa Ấn Độ và Đông Nam Á do Trung tâm NC Nam và Đông Nam Á của Đại học Madras đề xuất.
Toàn cảnh buổi làm việc
Tại Đại học Madras, Đoàn cũng có buổi gặp gỡ GS. Manivasakan, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Nam và Đông Nam Á và trao đổi về chuyên môn với các cán bộ của Trung tâm. GS. Manavasakan, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Nam và Đông Nam Á cho rằng, sự tiếp xúc giữa Trung tâm và Đoàn công tác của Viện NC Ấn Độ và Tây Nam Á là cơ hội tốt để hai bên thúc đẩy hợp tác, hiện thực hóa thỏa thuận MOU đã ký kết và hướng tới việc ký kết thêm MOU với Đại học Madras. Một số vấn đề đã được trao đổi bao gồm:
- Trung tâm NC Nam và Đông Nam Á của Đại học Madras dự định tổ chức Seminar hai ngày vào đầu năm 2018, về sự kết nối trong lịch sử và hiện tại giữa Ấn Độ và Đông Nam Á. Đây là bước khởi đầu cho một dự án lớn hơn trong đó có sự kết nối giữa Trung tâm và các cơ quan nghiên cứu ở Ấn Độ với các cơ quan nghiên cứu/đơn vị ở các nước ASEAN và những nước khác, thậm chí Hàn Quốc cũng có thể được mời. Phía Ấn Độ mong muốn đoàn Việt Nam có thể giúp kết nối với các cơ quan nghiên cứu của Lào và Campuchia nhằm thực hiện dự án này.
- Đoàn Viện NC Ấn Độ và Tây Nam Á giới thiệu đôi nét về sự hình thành và cơ cấu của Viện. Đoàn cũng giới thiệu về những hoạt động của Viện trong năm 2017, “Năm Hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ”, bao gồm hội thảo quốc tế về 45 năm quan hệ Việt Nam Ấn Độ (tháng 5/2017); Seminar nhân kỷ niệm 70 năm độc lập Ấn Độ ngày 21/9; Seminar về Mahatma Gandhi, Vị Thánh từ Gurajat nhân ngày sinh Gandhi và ngày quốc tế Bất Bạo Động 2/10/2017; và gần đây nhất trước chuyến thăm này là sự kiện Đối thoại giữa Viện HL KHXH VN và Hội đồng các vấn đề thế giới của Ấn Độ; hội thảo quốc tế về chính sách đối ngoại của Thủ tướng Narendra Modi.
- Các học giả tại buổi tọa đàm chia sẻ những vấn đề xung quanh sự phát triển kinh tế của Ấn Độ, quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc, những vấn đề cấp bách của Ấn Độ hiện nay, những đánh giá về chính quyền của Thủ tướng Narendra Modi. Một số học giả cho rằng, Ấn Độ và Trung Quốc có vấn đề căng thẳng về biên giới nhưng hợp tác thương mại rất tốt. Hiện nay, nhiều sự thay đổi đã diễn ra, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Việc sản xuất dịch chuyển từ phương Tây sang Trung Quốc do chi phát sản xuất rẻ ở Trung Quốc.
Trung Quốc trở thành “công xưởng của thế giới”. Trung Quốc sản xuất để xuất khẩu. Trong khi đó, Ấn Độ dịch chuyển sang nền kinh tế dịch vụ, Ấn Độ trở thành “văn phòng của thế giới”, chủ yếu nhờ vào lợi thế chi phí thuê ngoài ở Ấn Độ. Xu hướng hiện nay cho thấy, Trung Quốc đang học tập Ấn Độ để phát triển kinh tế dịch vụ, trở thành văn phòng của thế giới. Trong khi đó, Ấn Độ lại học tập Trung Quốc, phát triển ngành sản xuất thông qua sáng kiến “Sản xuất tại Ấn Độ”. Từ trước đến nay, Ấn Độ sản xuất để phục vụ nhu cầu địa phương, vì vậy chất lượng được đảm bảo. Trung Quốc sản xuất để xuất khẩu, vì vậy có sự khác biệt về chất lượng, Trung Quốc không chú trọng nhiều vào chất lượng. Khi nền kinh tế toàn cầu suy thoái, khó có thể thúc đẩy xuất khẩu. Ở Ấn Độ hiện nay diễn ra cuộc tranh luận về việc có nên thúc đẩy sản xuất ở Ấn Độ hay không. Một số học giả cho rằng, Ấn Độ có thế mạnh trong ngành dịch vụ, vì vậy, Ấn Độ nên tiếp tục phát triển ngành dịch vụ thay vì dịch chuyển trọng tâm sang sản xuất. Trong những năm qua, ngành dịch vụ của Ấn Độ tăng trưởng nhanh chóng, ngành sản xuất không phải là thế mạnh của Ấn Độ.
- Các học giả phía Ấn Độ khẳng định, trong 70 năm qua, Ấn Độ đã thay đổi nhiều trong tỉ lệ tăng trưởng. Ấn Độ giữa những năm 1950 và 1990 cũng đã rất khác nhau. Những năm 1950, Ấn Độ đã tăng trưởng khoảng 4%, đây cũng là sự tăng trưởng vượt bậc so với 1% trong thời kỳ thực dân. Tuy nhiên, Ấn Độ đã không thành công trong phân phối, sự bất bình đẳng không được giải quyết. Ấn Độ đã thực hiện nhiều cải cách trong nông nghiệp những năm 1960, 1970 và đã có nhiều thành công, tình trạng lương thực được cải thiện đáng kể nhưng Ấn Độ vẫn không thành công trong sự phân phối sản phẩm. Những năm 1990, đối diện với cuộc khủng hoảng tài chính, Ấn Độ tiến hành cải cách chiến lược tăng trưởng kinh tế, kinh tế tăng trưởng nhưng cũng không giải quyết được hoàn toàn vấn đề phân phối (distribution). Những cải cách mới tiếp tục được thực hiện để giải quyết những vấn đề xã hội như nghèo đói. Ấn Độ đạt được sự tăng trưởng ngoạn mục những năm 2007-08 nhưng vấn đề nghèo đói không giảm mấy. Bởi vì, sự tăng trưởng ở Ấn Độ không mang lại nhiều việc làm, sự tăng trưởng chủ yếu đến từ ngành dịch vụ, không sản sinh nhiều cơ hội việc làm cho mọi người.
Vào năm 2004, chính phủ Ấn Độ bắt đầu thay đổi tư duy, nhận thức rằng, sự phát triển con người khác với sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, chính phủ đã đưa ra kế hoạch đảm bảo việc làm cho người dân, chính phủ đã chi một khoản tiền lớn cho kế hoạch này. Ấn Độ đang học những bài học từ Việt Nam trong giải quyết vấn đề xã hội, vấn đề xóa đói giảm nghèo. Chính quyền bang Tamil Nadu dành một nửa ngân sách cho việc giải quyết những vấn đề xã hội. Tamil Nadu là bang thu hút được lượng FDI rất lớn, bởi vì chính quyền bang đã chi nhiều cho việc cải thiện y tế và giáo dục. Các bang như Maharashtra, Gujarat, Tamil Nadu là những bang thu hút FDI tốt nhất Ấn Độ. Về vấn đề kết nối internet ở Ấn Độ vẫn còn nhiều hạn chế.
Các học giả phía Ấn Độ cho rằng, sự kết nối yếu là do cơ sở hạ tầng kém. Trong những năm qua, trình độ về viễn thông (telecommunication), internet của Ấn Độ đã tăng vượt bậc, mặc dù vậy, sự kết nối internet vẫn còn chậm và chưa tốt là do cơ sở hạ tầng chưa tốt. Sau năm 2009, sự tăng trưởng kinh tế Ấn Độ bắt đầu suy giảm. Sự tăng trưởng kinh tế đã không đem lại sự phát triển con người. Sự tăng trưởng đã làm chia rẽ người giàu và người nghèo nhiều hơn. Tình trạng nước uống sạch và vệ sinh ở khắp nơi trên Ấn Độ đều giống nhau. Trong những năm qua, ngành nông nghiệp đã bị bỏ quên. Thuật ngữ “inclusive growth” (tăng trưởng bao trùm) không bao giờ có thể xảy ra. Làm thế nào để sự tăng trưởng dẫn đến sự phát triển? Ấn Độ không có sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Chính quyền không thành công trong việc đầu tư vào các vùng lạc hậu. Chính phủ không thu lại được lợi nhuận khi đầu tư vào những khu vực này. Điều này thể hiện sự kém hiệu quả của chính phủ. Theo một số học giả ơ đây, trong ba năm qua, chính quyền Modi chưa làm tốt. Chính phủ hứa nhiều nhưng không làm, không cảm nhận được sự tăng trưởng, thậm chí tốc độ tăng trưởng giảm đi.
Tại Tirupati, Đoàn đã tham dự Hội thảo quốc tế kéo dài hai ngày về chủ đề “Ấn Độ - ASEAN hướng tới quan hệ đối tác lớn hơn” (India – ASEAN toward greater partnership). Hội thảo do Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Đại học Sri Venkateswara và Khoa Chính trị học và Quản lý Công, Đại học Savitribai Phule Pune phối hợp tổ chức, nhằm kỷ niệm 25 năm quan hệ Ấn Độ - ASEAN và 5 năm quan hệ “Đối tác Chiến lược Ấn Độ - ASEAN”. Hội thảo có sự hiện diện của GS. A. Damodaram, Phó Hiệu trưởng Đại học Sri Venkateswara, GS. Jayachandra Reddy, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á và Thái Bình Dương, GS. Virendra Kumar Malhotra, Thư ký Thường trực, Hội đồng nghiên cứu KHXH Ấn Độ, Đại sứ M. Ganapathi, Nguyên Thứ trưởng, Bộ Ngoại giao Ấn Độ, GS. Michini Muranushi, Đại học Gakushuin, Nhật Bản, TS. Rupakjyoti Borah, Đại học Quốc gia Singapore, và nhiều học giả đến từ các trường đại học và viện nghiên cứu Ấn Độ như Đại học Madras, Đại học Jawaharlal Nehru, Đại học Rajasthan…
Hội thảo bao gồm phiên khai mạc, 6 phiên hội thảo tại các tiểu ban và phiên bế mạc. Các phiên hội thảo đã diễn ra trong không khí trang trọng nhưng cũng rất thẳng thắn và cởi mở. Nhiều góc nhìn và quan điểm đa chiều về quan hệ Ấn Độ và ASEAN đã được chia sẻ giữa các học giả Ấn Độ và quốc tế. Hầu hết các báo cáo khẳng định mối quan hệ đa dạng giữa Ấn Độ và Đông Nam Á có lịch sử lâu đời. Ấn Độ đã có quan hệ thương mại và văn hóa với các nước Đông Nam Á như Myanmar, Malaysia và Indonesia và điều này được ghi lại khá rõ trong các tư liệu lịch sử. Quá trình phát triển thăng trầm của mối quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á và sau này là Ấn Độ - ASEAN cũng được các học giả thừa nhận. Quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á đã có nhiều hạn chế trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Sau Chiến tranh Lạnh, với sự thành đổi của thế giới từ đầu thập kỷ 1990, quan hệ Ấn Độ - ASEAN đã được chú ý phát triển. Cải cách kinh tế và “chính sách Hướng Đông” của Ấn Độ đã giúp thúc đẩy quan hệ Ấn Độ - ASEAN phát triển nhanh chóng. Hiện nay, “chính sách Hướng Đông” đã trở thành “chính sách Hành động phía Đông”, thể hiện sự chủ động và tích cực của chính phủ Ấn Độ trong quan hệ với ASEAN. Hiện nay, quan hệ thương mại vẫn được coi là một trong những kênh quan trọng nhất trong sự hội nhập kinh tế của Ấn Độ với ASEAN. Sự tăng trưởng bền vững trong thương mại và đầu tư giữa Ấn Độ và ASEAN đã được thừa nhận. Tuy nhiên, đa số các học giả đều đồng ý rằng, Ấn Độ và ASEAN cần làm nhiều hơn nữa để tăng cường hợp tác thương mại, hướng đến những kết quả lớn hơn vào năm 2025. Các học giả cũng có những đánh giá về cơ hội và thách thức trong quan hệ Ấn Độ - ASEAN, qua đó đưa ra những gợi ý cho cả hai phía trong sự phát triển mối quan hệ trong thời gian tới.
Ngoài việc tham dự hội thảo, trong thời gian ở Tirupati, Đoàn cũng đã có buổi trao đổi với GS. Jayachandra Reddy, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á và Thái Bình Dương về khả năng thúc đẩy hợp tác giữa Trung tâm và Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á trong thời gian tới. Hai bên nhất trí sẽ tìm kiếm cơ hội hợp tác ba bên với Nhà xuất bản Sage để phối hợp xuất bản sách, chủ đề cuốn sách cũng đã được thảo luận.
Ngoài ra, Đoàn có dành thời gian thăm quan và khảo sát tại Tirupati. Tirupati là một thành phố nhỏ nhưng có nhiều trường đại học lớn. Đoàn đã thăm quan một số trường đại học ở Tirupati như Đại học Veda, nơi các sinh viên được đào tạo để trở thành những tu sĩ chuyên nghiệp. Tirupati cũng nổi tiếng là thành phố của những ngôi đền. Đoàn đã đến thăm Đền Sri Venkateswara, một trong những ngôi đền Hindu giáo linh thiêng, giàu có và thu hút lượng tín đồ đông nhất thế giới.
Nhìn chung, chuyến công tác của Đoàn Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á đã rất thành công, hoàn thành tốt những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, mở ra những cơ hội kết nối mới cho Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á.
Hằng Nga
Tổng hợp: ThS Nguyễn Đắc Tùng, Phòng NC Lịch sử-Văn hóa và Chính trị, Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á