19/05/2014
Trong khuôn khổ thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế theo Nghị định thư cấp Nhà nước “Xây dựng quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Hoa Kỳ trong bối cảnh mới”, nhóm thực hiện đề tài đã tiến hành khảo sát, trao đổi kinh nghiệm và thu thập số liệu về những vấn đề liên quan đến quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tại một số trường đại học tại Washington D.C và bang California.
Tham gia đoàn khảo sát gồm có PGS.TS. Ngô Xuân Bình, chủ nhiệm nhiệm vụ làm trưởng đoàn cùng các nhà khoa học từ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Khoa học và công nghệ.
Tại trường Đại học George Washington (Washington DC), đoàn đã trao đổi với bà Linda J.Yarr (Giám đốc Chương trình đối tác chiến lược quốc tế ở châu Á- Trung tâm nghiên cứu châu Á Sigur) và các cán bộ trong chương trình, TS. Michael F.Martin (Chuyên gia về các vấn đề châu Á của Bộ phận nghiên cứu phục vụ Quốc hội Mỹ - Congressional Research Service), Ông John Brandon (Giám đốc quan hệ quốc tế, thuộc Quỹ Châu Á). Tại trường Đại học Catholic (Catholic University of America) Washington D.C, đoàn đã trao đổi với ông Jim McCormack và các đồng nghiệp. Tại Trường San Jose State University, đoàn đã trao đổi với TS.Charles C.Bullock (Hiệu trưởng trường Khoa học ứng dụng và nghệ thuật), TS. Alice Hines (Phó Hiệu trưởng, giám đốc chương trình thúc đẩy giáo dục về công tác xã hội).
Kết quả trao đổi được tổng hợp thành những điểm chính như sau:
Những nét mới trong quan hệ song phương
Từ cách đặt vấn đề của đoàn khảo sát, các học giả Mỹ đã khái quát bức tranh quan hệ Việt – Mỹ trong thời gian gần đây rất tích cực, thể hiện sự coi trọng lẫn nhau của hai bên. Trong vòng 2 năm qua, hoạt động trao đổi đoàn giữa Việt Nam và Hoa Kỳ rất nhộn nhịp, là cơ sở cho thấy quan hệ song phương đang tiến triển tốt. Chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (tháng 7/2013) là chuyến thăm thứ hai của một người đứng đầu Nhà nước ta đến Hoa Kỳ kể từ khi bình thường hóa quan hệ hai nước năm 1995. Chuyến thăm làm việc của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Thủ đô Washington nhân dịp dự Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (tháng 9/2013) đã thúc đẩy các hợp tác quan trọng giữa hai nước, đặt biệt là về kinh tế, thương mại và đầu tư. Các chuyến thăm làm việc tại Hoa Kỳ của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc (tháng 8/2013) và nhiều lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương đã góp phần vào việc tăng cường hơn nữa sự hiểu biết, tin cậy và hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực. Trong số các quan chức Hoa Kỳ tới thăm Việt Nam có Bộ trưởng Y tế Kathleen Sebelius (tháng 6/2013), Bộ trưởng Tài chính Jacob Lew (tháng 10/2013), Đại diện thương mại Mike Froman, Phó Cố vấn an ninh quốc gia phụ trách thương mại Caroline Atkinson và đặc biệt là chuyến thăm của Ngoại trưởng John Kerry (tháng 12/2013).
Dấu ấn trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ năm qua không chỉ là việc hai nước đã thỏa thuận được về "Đối tác toàn diện" mà còn là những kết quả cụ thể trên các lĩnh vực hợp tác. Về kinh tế, thương mại hai chiều năm 2013 lần đầu tiên đạt mức 30 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất siêu 20 tỷ USD. Hai nước đang có tiến triển tích cực trong đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Khi hoàn tất, TPP sẽ giúp Việt Nam gắn kết với những nền kinh tế năng động nhất ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chiếm 40% GDP toàn cầu. Điều này mở ra những cơ hội to lớn cho kinh tế Việt Nam. Cùng với đàm phán TPP, trong năm qua, một loạt các hợp đồng thương mại lớn đã được ký kết, nổi bật là một loạt các hợp đồng như của tập đoàn GE bán 40 động cơ máy bay có giá trị 1,7 tỷ USD cho Tổng công ty hàng không Việt Nam, cung cấp 52 tua-bin cho giai đoạn 2 của dự án điện gió tại Bạc Liêu với trị giá 94 triệu USD; liên doanh GE và Snecma cung cấp động cơ máy bay cho công ty VietJetAir trị giá 800 triệu USD…
Những ngày cuối năm 2013 và đầu năm 2014 đã chứng kiến thêm những khoản đầu tư mới với tổng trị giá gần 1 tỷ USD của một số công ty đến từ Hoa Kỳ (như KKR, Texas Pacific Group, Warburg Pincus, Metlife) và sự mở rộng hoạt động của một số công ty đang làm ăn tại Việt Nam (như Coca-Cola, GE, UPS, Fedex) với tổng số vốn đầu tư mở rộng lên tới gần 800 triệu USD. Một số công ty khác như Murphy Oil, McDonald trong năm qua bắt đầu triển khai các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Hợp tác khoa học công nghệ Việt Nam - Hoa Kỳ cũng có những đột phá mới. Bên lề cuộc họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (tháng 9/2013), Ngoại trưởng John Kerry và Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã ký tắt Hiệp định hạt nhân dân sự, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quan hệ hợp tác tin cậy giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Bên cạnh hợp tác hạt nhân, hợp tác trên lĩnh vực biến đổi khí hậu giữa hai nước tiếp tục được tăng cường. Mỹ cam kết ban đầu 17 triệu USD cho Chương trình Rừng và các châu thổ Việt Nam nhằm giúp các cộng đồng dân cư đối phó với sự xuống cấp của môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Về quốc phòng - an ninh, hai bên tiếp tục triển khai các cơ chế đối thoại nhằm chia sẻ thông tin, tăng cường hợp tác song phương và phối hợp hành động trên các vấn đề an ninh khu vực như an ninh biển, tìm kiếm cứu nạn, hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa. Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh gặp với Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel bên lề Đối thoại Shang-ri La (tháng 8/2013); Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam thăm Hoa Kỳ (tháng 6/2013), Tư lệnh Phòng vệ biển Hoa Kỳ Robert J. Papp, Jr và Đô đốc Samuel Locklear, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương lần lượt thăm Việt Nam trong tháng 9 và tháng 12/2013. Những tiếp xúc trên đã góp phần tăng cường hiểu biết giữa quân đội hai nước và thúc đẩy hợp tác quốc phòng. Bên cạnh đó, hai bên tăng cường hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh, rà phá bom mìn, tìm kiếm quân nhân còn mất tích và tẩy rửa chất độc dioxin tại các điểm ô nhiễm nặng…
Trên các diễn đàn đa phương tiểu vùng, khu vực và quốc tế, Việt Nam và Hoa Kỳ đã phối hợp hiệu quả nhằm đóng góp chung vào hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực. Trong khuôn khổ Sáng kiến Hợp tác Hạ nguồn Mekong (LMI), Việt Nam đồng chủ trì cùng Hoa Kỳ trong trụ cột hợp tác về bảo vệ môi trường và nguồn nước. Hai bên cũng đẩy mạnh hợp tác cùng với các quốc gia khu vực trong khuôn khổ ASEAN - Mỹ, Diễn đàn An ninh khu vực (ARF), Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng mở rộng ASEAN (ADMM+). Ngoài ra, hai bên nỗ lực thúc đẩy phối hợp trên các diễn đàn đa phương toàn cầu.
Giao lưu nhân dân giữa hai nước không ngừng được tăng cường. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia dẫn đầu về số khách du lịch nước ngoài tới Việt Nam. Số kiều bào ta tại Hoa Kỳ về nước thăm thân và tiến hành nhiều hoạt động hợp tác, đầu tư, kinh doanh ngày càng tăng. Việt Nam liên tục dẫn đầu các nước ASEAN và đứng thứ tám trong tất cả các nước về số lượng sinh viên học ở Mỹ.
Bên cạnh đó, hai nước tiếp tục xử lý các vấn đề còn khác biệt trên tinh thần thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau. Về dân chủ nhân quyền, hai bên mở rộng các kênh trao đổi và đối thoại, kể cả ở cấp cao nhất nhằm tăng cường hiểu biết, thu hẹp khác biệt. Về thương mại, Hoa Kỳ thực hiện nhiều biện pháp và rào cản thương mại như tiến hành một số vụ điều tra chống trợ cấp, chống bán phá giá đối với cá tra - basa và các mặt hàng thủy sản khác, thép ống, trụ điện gió... Việt Nam nhấn mạnh các hoạt động thương mại cần được thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc tự do thương mại của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà cả hai nước là thành viên.
Ngày nay, với tinh thần đối tác toàn diện mới, Việt Nam và Hoa Kỳ đang đứng trước cơ hội to lớn để thúc đẩy hơn nữa hợp tác song phương. Điều quan trọng là cả hai nước cần có tầm nhìn chiến lược, tận dụng tốt hơn các cơ hội, giảm bớt những khác biệt để quan hệ Đối tác toàn diện cất cánh, hướng tới tương lai.
Việc hướng tới quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước
Từ cách đặt vấn đề của đoàn khảo sát về hướng tới xây dựng đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, các học giả Mỹ cũng cho rằng Mỹ sẵn sàng nâng mức quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, Mỹ sẽ đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới và cải cách nhiều hơn trên tất cả các lĩnh vực. Các học giả Mỹ cũng nhấn mạnh quan hệ giữa hai nước nên đi vào thực chất chứ không chỉ là tên gọi của mối quan hệ đó. Đối với Mỹ, họ không coi trọng vỏ bọc của mối quan hệ đó bằng nội dung của quan hệ.
Nhằm tìm hiểu rõ hơn chính sách của Việt Nam, có học giả Mỹ đã đặt câu hỏi dành cho Đoàn như: Tại sao Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc rồi và vẫn muốn quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ? Hay Tại sao Việt nam lại thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Tây Ban Nha hay một số nước có ít quan hệ? Hay ngoài Mỹ ra, các nước nào Việt Nam muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược?... Hai bên đã trao đổi và làm rõ chính sách của Việt Nam là mong muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với cả 5 nước thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, thực hiện chính sách cân bằng giữa các nước lớn và mong muốn thúc đẩy quan hệ với tất cả các nước vì mục đích phát triển và thịnh vượng.
Những trở ngại quan hệ đối tác chiến lược của hai bên
Theo TS. Michael R.Martin, vấn đề hiện nay có thể cản trở sự phát triển của quan hệ song phương là vấn đề dân chủ, tôn giáo, nhân quyền, các vấn đề tranh chấp thương mại (catfish, tôm v.v…), vấn đề cải cách ở bên trong của Việt Nam. Những vấn đề này có cải thiện nhưng vẫn là những lực cản trong thời gian tới nếu không có sự cải thiện mạnh mẽ.
Trong báo cáo nhân quyền Mỹ năm 2013 vừa được trình bày mới đây, Mỹ đã ghi nhận những tiến bộ trong nhiều lĩnh vực liên quan tới quyền con người tại Việt Nam, trong đó có tự do tôn giáo mà điển hình là sự gia tăng về số lượng các cơ sở thờ tự được đăng ký, đồng thời hoan nghênh Việt Nam ký Công ước chống tra tấn của Liên Hợp Quốc và tôn trọng quyền của người đồng tính. Kể từ khi bình thường hoá quan hệ vào năm 1995 đến nay, Mỹ và Việt Nam đã tổ chức 17 phiên đối thoại về nhân quyền và trao đổi thẳng thắn về các vấn đề mà mỗi bên quan tâm. “Việt Nam và Mỹ có một số nhận thức chung trong vấn đề quyền con người. Mỹ đánh giá cao và muốn duy trì đối thoại về quyền con người với Chính phủ Việt Nam không chỉ nhằm thúc đẩy tiến bộ trong vấn đề này mà còn nhằm tiếp tục đẩy mạnh quan hệ song phương”.
Theo các học giả Mỹ, Việt Nam và Mỹ cần tăng cường trao đổi và hiểu biết lẫn nhau qua nhiều kênh để giải quyết những khác biệt trong vấn đề quyền con người. Phương cách tối ưu để giải quyết bất đồng giữa Mỹ và Việt Nam trong vấn đề quyền con người là thông qua đối thoại và tương tác, không chỉ giữa chính phủ 2 nước mà còn cả xã hội. Sự tương tác với xã hội dân sự như vậy có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ trong cách tiếp cận của chúng tôi đối với Việt Nam mà còn cả trong cách tiếp cận của chúng tôi đối với vấn đề quyền con người trên toàn thế giới.
Với các vấn đề tranh chấp thương mại, Việt Nam là nền kinh tế nhỏ, phụ thuộc vào xuất khẩu ở thị trường Mỹ, Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ các chính sách của Mỹ để có những điều chỉnh phù hợp. Các chính sách ở Mỹ đều có sự tác động từ các dân biểu lên các đại diện của họ ở Quốc hội, vì vậy, các nhà làm chính sách đều phải bảo vệ quyền lợi của người dân Mỹ. Việt Nam không thể tác động được vào quá trình này. Việt Nam phải nâng cao chất lượng sản phẩm để vượt qua những rào cản kỹ thuật từ thị trường Mỹ; phải minh bạch, cung cấp thong tin kịp thời chính xác về quá trình sản xuất sản phẩm của mình.
Những trở ngại về mặt cơ chế, chính sách của Việt Nam cũng được đề cập đến. Việc Mỹ vẫn chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường do những cơ chế, chính sách ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của Mỹ. Mỹ đặc biệt quan tâm sự tự do di chuyển lao động, nguồn vốn, cơ chế đấu thầu, đối xử công bằng giữa các thành phần kinh tế nhất là việc cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng thị trường hơn, vấn đề minh bạch chính sách, chống tham nhũng v.v… Việt Nam cần chú ý đặc biệt đến những vấn đề đó nếu muốn thúc đẩy hợp tác kinh tế với Mỹ và nhất là đàm phán TPP.
Mỹ đánh giá Việt Nam thế nào?
Theo quan điểm cá nhân của các học giả trao đổi, Việt Nam đang có vai trò và vị trí rất quan trọng với Mỹ hiện nay. Điều này thể hiện ở những ý sau:
- Ổn định chính trị, giá nhân công rẻ của Việt Nam và tranh chấp Biển Đông là ba yếu tố góp phần thắt chặt quan hệ Việt - Mỹ.
Quan hệ Việt – Mỹ, vốn đã vững chắc, đang phát triển mạnh hơn nữa không chỉ nhờ hợp tác đầu tư và thương mại, mà còn là kết quả của các tranh chấp trên vùng biển Nam Trung Hoa (Việt Nam gọi là Biển Đông).
Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta thăm Việt Nam tháng Sáu năm ngoái và đã thảo luận việc sử dụng cảng ở Vịnh Cam Ranh để tàu Mỹ vào. Phía Việt Nam đồng ý cho phép các tàu phi vũ trang sử dụng cảng thương mại gần bên, nhưng hy vọng Mỹ trợ giúp bằng hình thức bán vũ khí sát thương – việc này Mỹ đã từ chối. Dẫu vậy, nếu quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc trong vấn đề biển Đông tiếp tục xấu đi, cửa có thể mở ra cho sự hợp tác tăng cường với Mỹ.
Hoa Kỳ cũng là đối tác xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, và nhân dân Việt Nam vẫn tiếp tục đánh giá cao nhân dân và văn hóa Mỹ. Cộng đồng người Việt sống ở Mỹ cũng lớn và đương nhiên là mối dây kết nối giữa các thành viên ở Mỹ và ở Việt Nam.
Theo các học giả, khu vực Đông Nam Á hứa hẹn nhiều cơ hội cho đầu tư và hợp tác của Mỹ. Nhưng Việt Nam, nhờ một chính phủ tương đối ổn định và cơ sở hạ tầng khá tốt, có lợi thế so với một số nước khác trong Asean. Cả khu vực này, thường bị đe dọa vì nguy cơ thiên tai và thỉnh thoảng lại có bạo lực chính trị, có một số rủi ro và Việt Nam dĩ nhiên không phải ngoại lệ. Nhưng nói chung, Việt Nam đem lại lực lượng lao động biết đọc biết viết, tương đối có học thức, giá rẻ so với các nước Đông Nam Á khác.
Hoa Kỳ vì lịch sử chiến tranh với Việt Nam, không có được sự hợp tác bằng với những nước như Philippines, một đồng minh lâu năm. Có những nhóm trong chính phủ Việt Nam vẫn nghi ngờ ý định của Mỹ nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung. Điều này có cản trở mối quan hệ một chút, nhưng rốt cuộc, hợp tác kinh tế vẫn thắng và giúp tạo ra động lực to lớn hơn cho sự hợp tác.
Hợp tác quân sự là lĩnh vực khó khăn trong quan hệ song phương cũng đã có bước tiến khá rõ nét. Các chuyến viếng thăm của lãnh đạo Bộ quốc phòng hai nước đã thường xuyên hơn. Việt Nam mong muốn Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm buôn bán vũ khí sát thương với Việt Nam. Hợp tác trong lĩnh vực quân y, kỹ thuật quốc phòng phát triển mạnh.
- Quan hệ với Việt Nam quan trọng khiến Mỹ vẫn nêu các vấn đề nhân quyền, nhưng không thể có hành động có ý nghĩa để ngăn vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, các tổ chức phi chính phủ và hệ thống Liên Hiệp Quốc, thông qua các dự án nhằm giúp chính phủ Việt Nam giải quyết lo ngại nhân quyền hiệu quả hơn, có thể có tác động quan trọng. Dẫu sao hợp tác vẫn hiệu quả hơn là tạo áp lực từ bên ngoài.
Quan hệ Mỹ-Việt đã được hai bên thúc đẩy dẫn đến việc ký kết quan hệ đối tác toàn diện. Vấn đề đối tác toàn diện không phải chi là quan hệ quân sự giữa hai bên trên Biển Đông, mà còn liên quan đến nhiều vấn đề khác mà Mỹ muốn Việt Nam cùng với họ đẩy mạnh từ lâu.
Từ thời bà Clinton làm ngoại trưởng, ngoài vấn đề Biển Đông, Mỹ cũng đã nói đến vấn đề tự do, nhân quyền ở Việt Nam, nhưng quan trọng và lâu dài cho khu vực là Sáng kiến vùng Hạ lưu sông Cửu Long (Lower Mekong Initiative).
Đây là sáng kiến nhằm đẩy mạnh việc hợp tác giữa Việt Nam, Campuchia, Lào, Thái Lan và Myanma, không những trên lãnh vực môi trường - như là việc Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập lụt, mà Việt Nam đã, đang và sẽ bị thiệt hại nhiều nhất – mà còn nhằm thúc đẩy hợp tác giữa 5 nước kể trên với Mỹ trong những lãnh vực khác như giáo dục, y tế, biển đổi khi hậu, năng lượng…
Việc các nước cùng hoạt động với nhau và với Mỹ, sẽ giúp chính quyền Mỹ chứng minh với người dân Mỹ rằng có sự hợp tác giữa nhiều nước với nhau trong vùng. Việc đó cũng giúp cản trở những hành động không hay của Trung Quốc trong khu vực, kể cả việc xây đập trên thượng nguồn sông Cửu Long.
Với sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc, Việt Nam càng có vị trí quan trọng với Mỹ và chiến lược xoay trục của Mỹ. Việt Nam có thể là một điểm chặn sự ảnh hưởng xuống phía Nam của Trung Quốc mà Mỹ rất cần. Ngoài ra, Việt Nam còn có cảng Cam Ranh có vị trí chiến lược rất quan trọng mà Mỹ muốn tiếp cận.
Giải pháp thúc đẩy quan hệ giữa hai nước
- Theo các học giả Mỹ, hai bên cần tiếp tục nuôi dưỡng và thúc đẩy Quan hệ đối tác toàn diện. Yếu tố nổi bật nhất trong quan hệ Việt Mỹ trong năm vừa qua là sự kiện hai nước ký thỏa thuận đối tác toàn diện và việc Chủ tịch nước Việt Nam sang thăm Mỹ theo lời mời của Tổng thống Obama. Theo các học giả Mỹ, hai bên muốn chứng minh rằng quan hệ song phương sẽ đi đến một giai đoạn mới. Nhưng phải nói rằng ký một thỏa thuận đối tác chiến lược như vậy mà không thi hành thì cũng không đi đến đâu. Cho nên, Việt Nam phải tiếp tục thúc đẩy, không nên chờ xem Mỹ làm gì rồi mình làm tiếp theo. Lý do là vì Mỹ là một nước lớn, có nhiều việc khác để làm, Việt Nam là một nước nhỏ, chủ động sẽ tốt hơn.
Dư luận Mỹ nói chung, nếu không được ai thúc đẩy, thường không để ý đến vấn đề đối ngoại, bởi vì có bao nhiêu là vấn đề trong nước phải lo. Trên báo chí, họ thấy rất mơ hồ, là lâu lâu có một cuộc tập trận chung giữa lính Mỹ với Việt Nam ở trên biển, nhỏ thôi, và chỉ vài cuộc thôi, cho nên họ không để ý đến vấn đề đó.
- Việt Nam phải nỗ lực cải thiện nhân quyền
Vấn đề nhân quyền là vấn đề được nhiều nhóm dùng để tấn công chính sách của Mỹ ở Việt Nam, hay là để tấn công Việt Nam. Không chỉ những nhóm thực sự bảo thủ là ủng hộ vấn đề nhân quyền này để chống Việt Nam, mà còn có cả các nhóm gọi là “tự do”, những nhóm phản chiến ngày xưa giúp đỡ Việt Nam, nhưng bây giờ lại trở thành những nhóm quan tâm đến nhân quyền…
Các học giả Mỹ cho rằng chính phủ Việt Nam phải chứng minh cho người Mỹ là chính phủ Việt Nam đang có chính sách thực hiện vấn đề tự do cho dân chúng, vấn đề nhân quyền, vấn đề hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam… Có thế thì người nước khác người ta mới thấy đây là vấn đề ích lợi cho người Việt Nam, ích lợi cho nhân dân trên thế giới, ít lợi cho con người. Cho nên tôi nghĩ rằng vấn đề thúc đẩy, thành lập các cơ chế bảo vệ quyền lợi của nhân dân Việt Nam, là vấn đề rất cần thiết và thiết thực, cho Việt Nam trên nhiều mặt.
Cho nên theo các học giả Mỹ, chính chính phủ Việt Nam phải đẩy mạnh vấn đề nhân quyền, vì nếu không, những nhóm tả cũng như hữu tại Mỹ, sẽ dùng hồ sơ nhân quyền này để chống Việt Nam, trong nhiều lĩnh vực. Họ sẽ liên kết vấn đề này với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, với quan hệ thương mại song phương Việt Mỹ, với quan hệ quân sự…
- Giải pháp trong Vấn đề TPP
TPP được xem là thỏa thuận chiếm 40% GDP toàn cầu và chiếm khoảng 30% mậu dịch quốc tế. TPP cũng được chính quyền Hoa Kỳ xem là cách để Washington củng cố quan hệ với các nước châu Á để đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc. Việt Nam tin rằng TPP sẽ tạo điều kiện tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu tại các thị trường mới, cũng như duy trì các thị trường truyền thống.
Trong những năm qua, 50% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là từ các nước thành viên TPP. TPP dự kiến sẽ giúp nhiều ngành tại Việt Nam như may mặc, giày da, đồ gỗ…và khiến các sản phẩm của Việt Nam cạnh tranh hơn các sản phẩm của Trung Quốc bởi Trung Quốc không tham gia TPP. Hơn nữa, TPP sẽ giúp Việt Nam tạo môi trường luật pháp minh bạch hơn trong bối cảnh Hà Nội đang sửa đổi các văn bản liên quan tới đầu tư, luật đất đai và đấu thầu.
Tuy nhiên, chặng đường tới hoàn tất đàm phán TPP không dễ dàng. Để đàm phán thành công TPP, Việt Nam cần phải cải thiện nhiều hơn nữa về môi trường kinh doanh, môi trường thể chế, luật pháp. Đây đều là những vấn đề phức tạp đòi hỏi Việt Nam phải quyết tâm hơn rất nhiều.
- Hai bên cần mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực biến đổi khí hậu, môi trường. Thúc đẩy lĩnh vực hợp tác này sẽ giúp quan hệ hai nước toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Qua việc thúc đẩy hợp tác trong những lĩnh vực này sẽ giúp quan hệ song phương trên các lĩnh vực khác được tăng cường.
Nhận xét và kết luận
Qua việc trao đổi với các học giả Mỹ, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
TM. ĐOÀN KHẢO SÁT
Viện trưởng Viện NC Ấn Độ và Tây Nam Á
PGS.TS. Ngô Xuân Bình
Tổng hợp: ThS Nguyễn Đắc Tùng, Phòng NC Lịch sử-Văn hóa và Chính trị, Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á