• Trang Chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu chung
    • Lãnh đạo viện
    • Hội đồng khoa học
    • Các phòng ban trực thuộc
    • Nhân sự
    • Quá trình phát triển
  • Hợp tác quốc tế
    • Hợp tác Quốc tế
    • Chương trình dự án HTQT
    • Các đối tác quốc tế
  • Hoạt động Khoa học
    • Đề tài KH cấp Nhà nước
    • Đề tài KH cấp Bộ
    • Đề tài KH cấp cơ sở
    • Điểm nhấn
    • Nghiên cứu
    • Hội thảo - Tọa đàm
  • Xuất bản phẩm
    • Tạp chí
    • Giới thiệu sách
    • Thể lệ gửi bài & đặt mua tạp chí
    • Ấn Phẩm công bố quốc tế
  • Tin tức
    • Tin hoạt động
    • Tin Quốc tế
    • Thông báo
  • Liên hệ
  • V
  •  
  • Hoạt động Khoa học
  • Điểm nhấn
Điểm nhấn

Những nhân tố mới trong hỗ trợ phát triển của Ấn Độ

10/06/2021

Tổng hợp: Phạm Thủy Nguyên, Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á (VIISAS)

Những nhân tố mới trong hỗ trợ phát triển của Ấn Độ

Cho đến nay, phần lớn hợp tác phát triển của Ấn Độ diễn ra thông qua quan hệ cấp chính phủ, thường được thực hiện thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng có những công việc đặc biệt đang được thực hiện bởi các tổ chức xã hội dân sự (CSO) hàng đầu trong các lĩnh vực như giáo dục, chăm sóc sức khỏe và bao gồm tài chính. Một số CSO đã phát triển các mô hình có thể được nhân rộng và áp dụng tại các nước đang phát triển khác. Trong thời gian gần đây, các công ty khởi nghiệp, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức xã hội dân sự đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các mục tiêu ngoại giao kinh tế của Ấn Độ.

Các công ty khởi nghiệp

  • Lĩnh vực công nghệ

Sự phát triển mạnh mẽ của các hệ sinh thái khởi nghiệp đã tạo nên những thành công về chuyên môn của lĩnh vực công nghệ. Hệ sinh thái khởi nghiệp về công nghệ lớn thứ 3 trên thế giới, và đang xâm nhập mạnh mẽ vào các thị trường toàn cầu để giải quyết các thách thức trên nhiều lĩnh vực.

  • Lĩnh vực công nghệ sức khỏe

Các công ty khởi nghiệp về công nghệ sức khỏe của Ấn Độ phục vụ các công nghệ chẩn đoán, sử dụng các thiết bị nhỏ gọn và phần mềm hỗ trợ trí tuệ nhân tạo (AI) như một sản phẩm dịch vụ, phù hợp với nhu cầu của các nước ở khu vực Châu Phi, Nam Á và Đông Nam Á. Bằng cách nâng cao hiệu quả và giảm chi phí chẩn đoán, những công ty khởi nghiệp này có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu thấp của các nước đang phát triển. Một ví dụ như thiết bị giá rẻ của UE LifeSciences phát hiện sớm ung thư vú (iBreastExam) giúp nhân viên y tế xác định các bất thường ở phụ nữ và cung cấp kết quả trong vòng năm phút trên ứng dụng di động. Hiện nay tỷ lệ sống sót của phụ nữ bị ung thư vú ở châu Phi thấp hơn nhiều so với ở Mỹ và châu Âu do việc phát hiện bệnh xảy ra ở giai đoạn cuối[1]. Với tính di động và nhỏ gọn của thiết bị, hàng trăm phụ nữ có thể được quét mỗi ngày ngay cả khi họ ở những khu vực xa xôi. Một số doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực sức khoẻ của Ấn Độ có khả năng phát triển tại các nước châu Phi và châu Á là Nirmai, Forus Health, Coeco Labs…

  • Lĩnh vực Công nghệ giáo dục 

Hệ sinh thái công nghệ giáo dục (edtech) sôi động của Ấn Độ bao gồm 4.450 công ty khởi nghiệp và là quê hương của công ty Byju’s - có giá trị cao nhất thế giới. Sử dụng tiếng Anh làm phương thức giảng dạy chính, các sản phẩm edtech của Ấn Độ có thể mở rộng ra toàn cầu. Mặc dù chương trình edtech của Ấn Độ có thể phục vụ cho nhiều cấp độ giáo dục khác nhau, nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng các can thiệp của edtech cho giáo dục tiểu học và trung học ở châu Phi phức tạp hơn nhiều và sẽ cần những hành động bổ sung đáng kể từ xã hội dân sự để thành công. Cùng với chương trình ITEC của mình, Ấn Độ cũng nên thúc đẩy các công ty khởi nghiệp edtech, như Simplilearn và UpGrad, cho phép sinh viên châu Phi nâng cao kỹ năng từ xa theo tốc độ của riêng họ. Simplilearn cung cấp đào tạo trực tuyến về các chuyên ngành như An ninh mạng, Điện toán đám mây, Quản lý dự án, Tiếp thị kỹ thuật số và Khoa học dữ liệu; hỗ trợ đào tạo chứng chỉ một triệu chuyên gia và 1000 công ty trên 150 quốc gia. Tại Châu Phi, Simplilearn đã hợp tác với công ty Deviare có trụ sở tại Nam Phi, cung cấp các chương trình kỹ năng số cho sinh viên, chuyên gia và doanh nghiệp và đã được Cơ quan Giáo dục và Đào tạo ngành Công nghệ Truyền thông, Thông tin và Truyền thông của Nam Phi công nhận.

Doanh nghiệp xã hội 

Một số nhà đổi mới của Ấn Độ đã thiết kế các giải pháp doanh nghiệp chi phí thấp trên một số lĩnh vực vì lợi ích xã hội. Trong khi một số giải pháp này là dành riêng cho các dự án kinh doanh vì lợi nhuận, những giải pháp khác kiếm tiền từ người dùng.

  • Hệ thống điện từ trấu

Hệ thống điện từ vỏ trấu (HPS) cung cấp điện cho các ngôi làng ở nông thôn Ấn Độ bằng cách chuyển chất thải sinh khối thành năng lượng sạch. Chi phí ít hơn 1.200 USD cho mỗi kW điện để lắp đặt các hệ thống này, bằng một nửa chi phí của các tấm pin mặt trời có quy mô tương tự[2]. Công ty cũng tạo việc làm bằng cách thúc đẩy các nhà máy điện thế hệ đầu tiên và cần nhân viên về lĩnh vực công nghệ. Với tình trạng thâm hụt năng lượng trầm trọng của châu Phi (xem Hình 1 và 2), mô hình của HPS có thể cung cấp khả năng tiếp cận điện ngoài lưới điện đồng thời tạo ra nhiều việc làm. HPS đã thực hiện các dự án ở Tanzania và Uganda.

Bảng 1: Các khu vực thiếu điện năng, 2019

Nguồn: International Energy Agency, SDG7: Data and Projections on Access to Electricity and Clean Cooking, Paris, International Energy Agency, 2020.

Bảng 2: Các khu vực được tiếp cận điện năng, 2019

Nguồn: International Energy Agency, SDG7: Data and Projections on Access to Electricity and Clean Cooking, Paris, International Energy Agency, 2020.

  • Công ty Waterlife của Ấn Độ

Waterlife đã đi tiên phong trong một loạt các công nghệ thân thiện với môi trường và hiệu quả về chi phí vượt ra ngoài quy trình thẩm thấu ngược tiêu chuẩn và được trang bị khác nhau để đáp ứng quy mô của cộng đồng, nhu cầu về nước uống và mức độ ô nhiễm nước. Công ty đã lắp đặt 4.000 hệ thống lọc nước cộng đồng trên khắp 12 bang của Ấn Độ, cải thiện trực tiếp cuộc sống của 13 triệu người.

  • Công ty chăm sóc mắt Aravind Eye Care

Aravind Eye Care là nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc mắt lớn nhất và hiệu quả nhất trên toàn cầu[3]. Mô hình hoạt động và kinh doanh đơn giản cho phép cung cấp dịch vụ phẫu thuật nhanh hơn sáu lần so với mức trung bình trên cả nước, với hơn một nửa số bệnh nhân (đến từ các hộ gia đình nghèo và nông thôn) được chăm sóc chất lượng cao miễn phí.

Mô hình phẫu thuật dây chuyền lắp ráp của Aravind sử dụng nguồn nhân lực được chia nhỏ cho nhiều nhiệm vụ khác nhau và mỗi bác sĩ nhãn khoa được hỗ trợ bởi năm hoặc sáu nhân viên y tế, và cải thiện năng suất làm việc. Mô hình của Aravind đã được nhân rộng thông qua các hợp tác với chính phủ các nước Ethiopia, Kenya, Zambia and Nigeria. 

Các tổ chức xã hội dân sự

Các tổ chức xã hội dân sự là một phần không thể thiếu trong quá trình phát triển của Ấn Độ, phục vụ các khu vực mà nhà nước và thị trường chưa tiếp cận được. Trong khi họ giải quyết các vấn đề dựa trên bối cảnh của bối cảnh địa phương, những bài học kinh nghiệm của họ có thể được nhân rộng ở các nước đang phát triển, hoặc truyền cảm hứng và cung cấp ý tưởng cho các đối tác ở những khu vực này.

  • Swayam Shikshan Prayog

Swayam Shikshan Prayog (SSP) thúc đẩy phát triển bền vững bao trùm bằng cách trao quyền cho phụ nữ trong các cộng đồng và khu vực có thu nhập thấp và bị đe dọa bởi khí hậu. Mô hình của SSP biến phụ nữ thành doanh nhân để giải quyết những thách thức phức tạp trong các lĩnh vực như y tế, nước và vệ sinh, năng lượng, an ninh lương thực và nông nghiệp [50]. Các công việc của SSP đã trao quyền cho 200.000 phụ nữ và tác động đến sáu triệu hộ gia đình tại 2.200 ngôi làng bị hạn hán trên khắp bảy bang của Ấn Độ. Do điều kiện khí hậu hạn hán của quốc gia châu Phi, việc áp dụng kinh nghiệm của SSP có thể phù hợp đối với châu lục này.

  • Tổ chức giáo dục Pratham

Pratham được biết đến là tổ chức giáo dục đi tiên phong trong hai biện pháp can thiệp chất lượng cao, chi phí thấp, bao gồm các dịch vụ Báo cáo Tình trạng Giáo dục Hàng năm (ASER; một cuộc khảo sát do người dân thực hiện thu thập dữ liệu về kết quả học tập của 600.000 trẻ em trên khắp vùng nông thôn Ấn Độ) và chương trình Giảng dạy đúng trình độ (TaRL). ASER là nguồn dữ liệu duy nhất về kết quả học tập của trẻ em trong nước, và đã có tác động lớn đến chính sách quốc gia và diễn ngôn. Các tổ chức từ 13 quốc gia ở Châu Mỹ Latinh, Châu Phi và Châu Á đang thiết kế và thực hiện các cuộc khảo sát ASER thông qua Mạng lưới Hành động của người dân dân vì Học tập (PAL) –– một mạng lưới các tổ chức giữa các quốc gia đang phát triển, nhằm điều chỉnh và áp dụng các chương trình tại các quốc gia.

Chương trình TaRL xây dựng các kỹ năng nền tảng về tính toán và đọc viết ở trẻ em có trình độ học tập không đầy đủ, một vấn đề phổ biến ở tất cả các nước đang phát triển. TaRL đã được thể chế hóa ở Châu Phi như một sáng kiến ​​chung của Phòng thí nghiệm Hành động chống lại đói nghèo Pratham và Abdul Latif Jameel , và đang hoạt động tại 10 quốc gia thông qua các đối tác địa phương. Hoạt động của TaRL đang được Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (Updrad) tài trợ, làm việc trực tiếp với các chính phủ ở Nigeria, Cote D’Ivoire và Zambia.

  • Hoạt động ASHA

Hoạt động ASHA (OA) nhằm mục đích loại trừ bệnh lao bằng cách giải quyết vấn đề ‘chặng cuối’ thông qua các dịch vụ chẩn đoán và điều trị ngay trước cửa chất lượng cao dựa vào cộng đồng và được hỗ trợ bởi công nghệ.

OA thiết lập các trung tâm cộng đồng tại các khu ổ chuột đô thị với sự hợp tác của các doanh nhân cộng đồng địa phương, tài năng thất nghiệp, thương gia hoặc các tổ chức tôn giáo để phục vụ 5.000-25.000 người trong bán kính 1,5 km. Ở các vùng nông thôn, những người trẻ trong cộng đồng được tham gia để đảm bảo chẩn đoán và chăm sóc bệnh nhân lao, vận chuyển các loại thuốc quan trọng đến với người bệnh, theo dõi việc tuân thủ và hỗ trợ bệnh nhân nếu cần thiết phải đến cơ sở y tế.

Chi phí điều trị cho mỗi bệnh nhân lao của THK là 80 USD ở Ấn Độ[4] trong khi ở Campuchia là 1.900 USD , 3.575 USD ở Nam Phi, 14.059 USD ở Châu Âu và 17.000 đô USD ở Mỹ. Mô hình của OA đã được nhân rộng ra nhiều nước khác như  Campuchia. Với tỷ lệ bệnh lao cao ở châu Phi, các hoạt động của OA có ý nghĩa quan trọng đối với châu lục này.

Kết luận

Có thể nói, các công ty khởi nghiệp công nghệ, doanh nhân xã hội và tổ chức xã hội dân sự của Ấn Độ có nhiều cơ hội để trở thành đối tác trong các chương trình hợp tác phát triển với các đối tác của quốc gia này. Hợp tác chủ động trong các lĩnh vực này mang lại những ưu điểm như:

  • Tận dụng niềm đam mê, sự sáng tạo, năng động và kiến ​​thức lĩnh vực của các chuyên gia thành công trong các mô hình ở Ấn Độ và có thể áp dụng những mô hình này sang các quốc gia khác
  • Nhờ cách tiếp cận dựa trên kết quả và hiểu biết cơ sở về những thách thức phát triển, có thể cải thiện kết quả ở những mô hình sau.
  • Do các tổ chức này có khả năng tiếp cận các nguồn vốn khác và không chỉ dựa vào nguồn vốn của chính phủ nên việc tham gia của họ vào các dự án phát triển sẽ tiết kiệm chi phí hơn so với việc dựa vào các doanh nghiệp nhà nước dựa vào nguồn vốn của chính phủ.
  • Trong nỗ lực hợp tác phát triển, Ấn Độ nỗ lực thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức hàng đầu trong nước. Các tổ chức này mang lại lực đẩy về động lực, tính linh hoạt và phương pháp làm việc cho các hợp tác của chính phủ Ấn Độ và đối tác. Điều này sẽ thúc đẩy Thương hiệu Ấn Độ và tăng ảnh hưởng của sức mạnh mềm của Ấn Độ
  • Bằng cách phối hợp với các tổ chức này, và hoạt động như những tác nhân tạo ra thay đổi ở các nước đang phát triển, Ấn Độ có cơ hội tạo dựng nên các mô hình tổ chức có khả năng và quy mô để giải quyết những thách thức đang nổi lên trên toàn cầu.

Một số công ty khởi nghiệp công nghệ có tiềm năng thay đổi mô hình phát triển thông qua tác động đối với việc tiếp cận và cung cấp giáo dục và chăm sóc sức khỏe với giá cả phải chăng. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhận ra những hạn chế trong việc phụ thuộc quá nhiều vào các sáng kiến công nghệ ở các nền kinh tế mới nổi ở châu Phi và châu Á vốn thường xuyên bị thiếu điện hoặc đưởng truyền internet ổn định. Tuy nhiên, các quốc gia đang phát triển ở Châu Phi và châu Á cũng đang chứng kiến ​​tốc độ đô thị hóa nhanh chóng và sự phát triển của tầng lớp trung lưu. Để đáp ứng các nhu cầu của nhiều tầng lớp dân cư, chương trình hợp tác phát triển cần nhận ra những điểm mạnh và hạn chế của mỗi bên để điều chỉnh cho phù hợp điều kiện của mỗi nước.



[1] Kathleen Axelrod, “Meet Our New Innovators: UE LifeSciences,” Innovations in Healthcare.

[2] Manoj Sinha, “Seeking an End to Energy Starvation (Innovations Case Narrative: Husk Power Systems),” Innovations: Technology, Governance, Globalization 6, no. 3 (2011).

[3] Aravind Krishnan, “Aravind Eye-Care System – McDonaldization of Eye-Care,” Technology and Operations Management, HBS Digital Initiative, 10 December 2015.

[4] Simplilearn Strengthens International Presence Partners With South Africa-Based Deviare Pty Ltd.,” The Week, 18 September 2019.

 



Print Feedback Send Email
Other news:
  • Một số kết quả từ Hội nghị Thượng đỉnh Ấn Độ - Liên minh châu Âu (EU): Mở rộng hợp tác hướng tới khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (02/06/2021)
  • Hợp tác phát triển của Ấn Độ (02/06/2021)
  • Đại dịch COVID-19 đẩy 230 triệu người Ấn Độ rơi vào cảnh nghèo đói (24/05/2021)
  • Phát biểu của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi tại Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu 2021 (23/04/2021)
  • Ấn Độ tăng cường tham vọng về biến đổi khí hậu (08/02/2021)
  • Luật nông nghiệp cải cách Ấn Độ (08/02/2021)
  • Các địa điểm Phật giáo linh thiêng tại Sri Lanka (27/01/2021)
  • Phát biểu: “Phong trào giành độc lập của nhân dân Ấn Độ”, TS Lê Thị Hằng Nga (20/01/2021)
  • Ấn Độ lập danh sách các quốc gia xuất khẩu tên lửa BrahMos và tên lửa Akash (14/01/2021)
  • Tầm nhìn chung Ấn Độ - Việt Nam về Hòa bình, Thịnh vượng và Con người (31/12/2020)
Các tin đã đưa ngày:
Hoạt động Khoa học
  • Đề tài KH cấp Nhà nước
  • Đề tài KH cấp Bộ
  • Đề tài KH cấp cơ sở
  • Điểm nhấn
  • Nghiên cứu
  • Hội thảo - Tọa đàm
 
Tạp Chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á
​ 
  • Số 3(112) - THÁNG 3/2022
  • Số 2(111) - THÁNG 2/2022
  • Số 1(110) - THÁNG 1/2022
  • Số 12(109) - 12/2021
  • Số 11(108) - 11/2021
  • Số 10(107) - 10/2021
 
Giới thiệu sách
  • Giới thiệu cuốn sách “Nữ giới Phật giáo với báo chí” (Chủ biên: TS. Ni sư Như Nguyệt, TS. Lê Thị Hằng Nga, TS. Trần Thanh Thủy)

  • Giới thiệu cuốn sách “Quan hệ giữa Ấn Độ với một số nước trong khu vực và hàm ý cho Việt Nam” (Chủ biên: Lê Thị Hằng Nga)

  • Giới thiệu cuốn sách “India – Vietnam Enhancing Partnership” (Co-editors: Jayachandra Reddy G & Nguyen Xuan Trung)

  • Giới thiệu cuốn sách “Nghiên cứu Ấn Độ tại Việt Nam năm 2018: Những vấn đề văn hóa, xã hội và phát triển (Chủ biên: Trần Hoàng Long)

 

BẢN QUYỀN VIỆN NGHIÊN CỨU ẤN ĐỘ VÀ TÂY NAM Á - VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Giấy phép số 197/GP-BC do Bộ VHTT cấp ngày 27/10/2005

Địa chỉ: Tầng 7, Tòa nhà VASS, Số 1 - Liễu Giai - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 24.62730749 Email: vniisas@gmail.com | tcnc.andovachaua@gmail.com.

 

Visited: