• Trang Chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu chung
    • Lãnh đạo viện
    • Hội đồng khoa học
    • Các phòng ban trực thuộc
    • Nhân sự
    • Quá trình phát triển
  • Hợp tác quốc tế
    • Hợp tác Quốc tế
    • Chương trình dự án HTQT
    • Các đối tác quốc tế
  • Hoạt động Khoa học
    • Đề tài KH cấp Nhà nước
    • Đề tài KH cấp Bộ
    • Đề tài KH cấp cơ sở
    • Điểm nhấn
    • Nghiên cứu
    • Hội thảo - Tọa đàm
  • Xuất bản phẩm
    • Tạp chí
    • Giới thiệu sách
    • Thể lệ gửi bài & đặt mua tạp chí
    • Ấn Phẩm công bố quốc tế
  • Tin tức
    • Tin hoạt động
    • Tin Quốc tế
    • Thông báo
  • Liên hệ
Hoạt động Khoa học
  • Đề tài KH cấp Nhà nước
  • Đề tài KH cấp Bộ
  • Đề tài KH cấp cơ sở
  • Điểm nhấn
  • Nghiên cứu
  • Hội thảo - Tọa đàm
 
Định hướng nghiên cứu

Phát triển khu công nghệ cao phần mềm tại Ấn Độ và một số gợi ý cho Việt Nam

08/07/2021

Tác giả: Nguyễn Đức Trung, Viện nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á (VIISAS)

Phát triển khu công nghệ cao phần mềm tại Ấn Độ và một số gợi ý cho Việt Nam

Ấn  Độ là một trong các quốc gia phát triển mạnh mẽ về công nghệ cao và đi đầu trong việc tạo ra các chính sách công nghệ định hướng tương lai. Sau quá trình tự do hóa kinh tế năm 1991, chính phủ Ấn Độ đã thành lập kế hoạch các khu công nghệ phần mềm của Ấn Độ (STPI) và mở nhiều khu công nghệ phần mềm trên khắp đất nước (Bộ Điện tử và Công nghệ thông tin Ấn Độ, 2021). Những khu công nghệ này đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của lĩnh vực phần mềm của Ấn Độ. Bài viết sẽ đánh giá sự phát triển khu công nghệ cao phần mềm tại Ấn Độ và đưa ra một số gợi ý cho Việt Nam trong lĩnh vực tiềm năng này. Bài viết được trình bày gồm

 

 

1. Một số khái niệm về khu công nghệ cao

Khu công nghệ cao bắt đầu được hình thành ở Mỹ vào những năm 1950 . Kể từ đó, một số quốc gia trên thế giới đã áp dụng và triển khai loại hình khu công nghệ này để phát triển và thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ cao.

Theo Ủy hội Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương Liên Hiệp Quốc - ESCAP (2018), khu công nghệ cao là một tổ chức được quản lý bởi các chuyên gia  với mục đích chính là tăng sự giàu có của cộng đồng bằng cách thúc đẩy văn hóa đổi mới và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp liên kết và các tổ chức dựa trên tri thức.

UNCTAD (2017) cho rằng khu công nghệ cao là một phần nằm trong Đặc khu Kinh tế (SEZ). Đặc khu kinh tế được định nghĩa là các khu vực địa lý nơi các quy tắc kinh doanh khác nhau và nơi có nhiều biện pháp khuyến khích được sử dụng để thu hút các nhà đầu tư và doanh nghiệp từ nhiều ngành sản xuất, công nghệ và dịch vụ.

2. Đặc điểm của khu công nghệ cao

Theo Diganta Das (2015), các khu công nghệ cao là yếu tố cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển đổi mới của nền kinh tế và nhằm cung cấp sự phát triển của các lĩnh vực công nghệ cao, tạo cơ sở khoa học về sản xuất, cơ sở hạ tầng, việc làm mới , sự tham gia của các chuyên gia lành nghề, v.v.

Hiện nay, các khu công nghệ cao là một trong những yếu tố quan trọng nhất của nền kinh tế hiện đại:

  • Khu công nghệ cao là loại hình đặc thù của khu kinh tế tự do, nơi phát triển các sản phẩm chuyên sâu về khoa học và đội ngũ nhân viên mới
  • Khu công nghệ cao là hình thức hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp và phát triển dưới hình thức cung cấp cơ sở hạ tầng, kỹ thuật và nguồn lực cần thiết để đạt được bước tiến mới ý tưởng kinh doanh, phát triển doanh nghiệp trong giai đoạn mới thành lập.

Là một tổ chức do các chuyên gia quản lý, mục tiêu chính của khu công nghệ là tăng cường phúc lợi cho cộng đồng địa phương với việc thúc đẩy văn hóa đổi mới sáng tạo, cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức khoa học và doanh nghiệp đổi mới. Để đạt được những mục tiêu này, khu công nghệ cao cần khuyến khích và kiểm soát các luồng kiến ​​thức và công nghệ giữa các trường đại học, tổ chức nghiên cứu khoa học, các công ty và thị trường. Nó đơn giản hóa việc thành lập và phát triển các công ty đổi mới với sự trợ giúp của các quy trình ươm tạo và tạo ra các công ty mới từ các công ty hiện có (quy trình spin-off).

Mục tiêu chính của việc xây dựng các khu công nghệ cao là:

(i)    Chuyển đổi kiến ​​thức và phát minh sang công nghệ;

(ii)   Chuyển đổi công nghệ sang sản phẩm thương mại;

(iii) Chuyển giao công nghệ cho ngành công nghiệp thông qua lĩnh vực khởi nghiệp nhỏ chuyên sâu về khoa học;

(iv)  Hình thành và thành lập thị trường của các tổ chức chuyên sâu về khoa học; (v)   Hỗ trợ của các tổ chức trong lĩnh vực khởi nghiệp chuyên sâu về khoa học.

3. Các khu công nghệ cao phần mềm tại Ấn Độ

Các công viên công nghệ phần mềm, hay STP, được thành lập lần đầu tiên vào năm 1990 ở Bangalore, Pune và Bhubaneswar với tư cách là các khu tự trị riêng biệt. Sự thành lập của STPI, một khu được thành lập bởi Bộ Truyền thông và Công nghệ Thông tin của Chính phủ Ấn Độ vào năm 1991, đã hợp nhất ba khu này. STPI đã mở rộng đến Noida, Hy- derabad, Trivandrum và Gandhinagar. Khi bang Karnataka công bố chính sách ủng hộ Công nghệ thông tin (ủng hộ CNTT) vào đầu những năm 1990, các chính quyền bang khác đã áp dụng và STPI hiện đã lan rộng ra cả các thành phố nhỏ hơn (Aradhna Aggarwal, 2009).

Trụ sở chính của STPI đặt tại New Delhi, thủ đô của Ấn Độ. Hiện có 47 trung tâm được liệt kê trên trang web của STPI, trong đó mười trung tâm là cơ sở trực tiếp hoặc trung tâm chính, và 37 trung tâm còn lại là trung tâm phụ. Ví dụ, ở bang Karnataka, có tổng cộng năm trung tâm STPI trong đó Bangalore là cơ quan giám đốc và bốn trung tâm còn lại (Mysore, Manipal, Mangalore và Hubli) là các trung tâm phụ. Các trung tâm nhỏ hơn thúc đẩy các thành phố nhỏ hơn trở thành trung tâm CNTT và cung cấp việc làm nội địa hóa giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bên ngoài các thành phố lớn. Sự phân bố này phản ánh hiệu ứng phân cụm công nghệ tự nhiên như đã được trải nghiệm ở các khu vực khác như Thung lũng Silicon (STPI, 2021).

STPI đóng vai trò là một doanh nhân làm việc trực tiếp với các công ty phần mềm. STPI là một chương trình định hướng xuất khẩu tích hợp khái niệm về các đơn vị 100% định hướng xuất khẩu (EOU) và các khu chế xuất (EPZ) của Chính phủ Ấn Độ trong khái niệm về các khu công nghệ. Chức năng chính của STPI là cung cấp môi trường để phát triển và xuất khẩu phần mềm máy tính cũng như các dịch vụ chuyên nghiệp.

Các mục tiêu của STPI là:

  • Thúc đẩy phát triển phần mềm và dịch vụ phần mềm.
  • Cung cấp các dịch vụ theo luật định cho các nhà xuất khẩu bằng cách thực hiện Đề án STP / EHTP.
  • Cung cấp các dịch vụ truyền thông dữ liệu bao gồm các dịch vụ giá trị gia tăng khác nhau cho các ngành CNTT và các công ty doanh nghiệp.
  • Cung cấp các dịch vụ Tư vấn và Quản lý Dự án ở cả cấp quốc gia và quốc tế.
  • Thúc đẩy các doanh nhân vừa và nhỏ bằng cách tạo ra một môi trường thuận lợi trong lĩnh vực Công nghệ Thông tin.
  • Thúc đẩy các ngành công nghiệp công nghệ sinh học / tin học sinh học bằng cách cung cấp hỗ trợ theo luật định về cơ sở hạ tầng.

3.1. Khu công nghệ kỹ thuật Trivandrum

Ra mắt vào năm 1996, Technopark là một khu tự trị được thúc đẩy bởi chính quyền bang Kerala ở thành phố Trivandrum, thủ phủ của Kerala. Với sức chứa gần 200.000 km2 cùng các tiện ích như cơ sở hạ tầng vật lý an toàn, nhân lực có trình độ cao, tiện nghi và cơ sở vật chất, Technopark còn cung cấp thêm giá trị kinh doanh độc đáo sau:

  • Trung tâm Năng lực Kỹ thuật Phần mềm Technopark (TSECC), trung tâm một cửa hướng dẫn các công ty phát triển phần mềm cách xây dựng kỹ thuật phần mềm vào quy trình phát triển phần mềm.
  • Sáng kiến ​​“eTechnopark”, một nền tảng dựa trên web cung cấp giao diện thống nhất giữa thế giới bên ngoài, cộng đồng Technopark và nhóm Technopark.
  • Sáng kiến ​​“Technopark eCampus” cung cấp môi trường học tập điện tử cho nâng cấp liên tục các kỹ năng.
  • T-BIC - Trung tâm Đổi mới Kinh doanh Technopark, một cơ sở ươm tạo doanh nghiệp.
  • Technopark tổ chức hơn 110 Công nghệ Thông tin và Công nghệ Thông tin
  • Các dịch vụ được kích hoạt hoặc ITES.9 Ernst and Young Middle East, Tata Elxsi, US Software, Network Systems & Technologies, IBS, Hays BPO, Suntec, IVL và Toonz là một số công ty trong khu (Arun, M. 2013)

3.2. Khu công nghệ quốc tế Bangalore (ITPB)         

Khai trương vào năm 2000, ITPB là một liên doanh có sự tham gia của Tata Industries, Singapore Consortium và Ban phát triển các khu công nghiệp Karnataka. ITPB tọa lạc tại Whitefield, cách trung tâm Bangalore, Thung lũng Silicon của Ấn Độ 18 km. Đây là khu công nghệ đầu tiên tích hợp các cơ sở văn phòng, bán lẻ, khu dân cư và giải trí tại một địa điểm duy nhất (Wang Wei Zhang Sheng-hui, 2011). Nó cung cấp các tiện ích tiêu chuẩn của khu công nghệ thông tin cũng như cơ sở hạ tầng như hệ thống an ninh và phòng cháy chữa cháy, mạng viễn thông liền mạch, kết nối cáp quang và một nhà máy điện chuyên dụng. ITPB hiện có hơn 120 công ty trong lĩnh vực CNTT và ITES, viễn thông phát triển phần mềm, điện tử và các ngành công nghệ cao khác và sử dụng hơn 19.000 chuyên gia. Một số công ty lớn tại ITPB bao gồm ACS, Infineon Technologies, TCS, Lucent Technologies, Agere Systems, Accelrys, Applied Materials, Sanyo, IBM, GE, Wipro Technologies, Cable and Wireless, IPsoft Inc., First Advantage, ZapApp và CAE.

3.3. Công viên TIDEL, Chennai

Khai trương vào năm 2000 tại Chennai, thủ phủ của Tamil Nadu, Công viên TIDEL được thúc đẩy bởi Tập đoàn Phát triển Công nghiệp Tamilnadu (TIDCO) và Công ty Cổ phần Điện tử Tamil Nadu Limited (ELCOT), cả hai tổ chức thuộc sở hữu của Chính quyền bang Tamil Nadu. Nó cung cấp các tiện ích tiêu chuẩn của khu công nghệ như dữ liệu tốc độ cao / liên lạc thoại, 100% điện dự phòng, hội nghị truyền hình và giải trí. Một số công ty lớn đặt tại Tidel Park bao gồm Verizon Data Services India (Private) Ltd., Computer Associates, Satyam Computer Services, Sify và Accenture Services Private Ltd. Công viên có diện tích xây dựng hơn 1,1 km2 với hơn 12.000 nhân viên (Harshitha Satish and Ksheeraja Satish, 2021).

3.4. Infopark, Kochi

Infopark nằm ở Kochi thuộc Bang Kerala và được phát triển bởi Chính quyền bang Kerala. Nó bắt đầu hoạt động vào tháng 11 năm 2003 trên khuôn viên rộng hơn 100 mẫu Anh. Infopark cung cấp Trung tâm Doanh nghiệp Thông minh (SBC), một cơ sở ươm tạo plug-and-play với giá thuê thấp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp hoặc các công ty nước ngoài muốn thử nghiệm môi trường kinh doanh. Công viên cũng cung cấp các tiện nghi như phòng họp chung, phòng phỏng vấn, ... Có hai tòa nhà với tổng diện tích xây dựng là 0,375 triệu feet vuông và đã được thuê kín chỗ. Wipro và Tata Consultancy Services (TCS), hai công ty CNTT lớn ở Ấn Độ, đặt tại Infopark trong số hơn hai chục công ty trong công viên.

3.5. Thành phố Tư vấn Kỹ thuật Công nghệ Thông tin Hyderabad (Thành phố HITEC)

Được thành lập vào năm 1997, HITEC City được tiếp thị và duy trì bởi L and T Infocity Ltd., một liên doanh giữa Larsen và Toubro Limited, sở hữu 89% liên doanh, và Andhra Pradesh Industrial Infrastructure Corporation (APIIC) Limited, sở hữu còn lại 11%. Trải rộng trên diện tích 151 mẫu Anh, HITEC City cung cấp 5 triệu feet vuông không gian văn phòng và cơ sở hạ tầng cho các cơ sở plug-and-play cho các công ty CNTT và ITES. Công viên được phát triển theo từng giai đoạn và cung cấp hai loại cơ sở, được xây dựng không gian sẵn sàng để chiếm giữ hoặc các khuôn viên độc lập được xây dựng theo yêu cầu của khách hàng. Có một khu dân cư được quy hoạch xây dựng liền kề với Thành phố HITEC. Microsoft, Oracle và HSBC là một số khách thuê chính tại Thành phố HITEC.

Ngoài ra, Trang web của Công viên Công nghệ Phần mềm Ấn Độ chia sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm ở Ấn Độ thành bốn giai đoạn sau:

  • Giai đoạn 1: Trong giai đoạn đầu tiên là trong 2 năm đầu tiên sau khi tự do hóa kinh tế năm 1991, chỉ có một số công ty như Texas Instruments, Hewlett Packard và Digital xuất khẩu phần mềm từ Ấn Độ và ngành công nghiệp phần mềm vẫn còn trong giai đoạn sơ khai.
  • Giai đoạn 2 Trong giai đoạn này, bắt đầu từ năm 1993 và kéo dài cho đến khoảng năm 2001, khái niệm “Công việc phát triển ra nước ngoài” trở nên phổ biến với 380 công ty đa quốc gia về thiết kế vi mạch, phần mềm truyền thông và cơ sở thiết lập phần mềm hệ thống ở Ấn Độ.
  • Giai đoạn 3: Ngành công nghiệp phần mềm tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực mới với mọi công ty khởi nghiệp Công nghệ cao nhỏ ở Thung lũng Silicon đều thành lập các trung tâm phát triển tại các trung tâm phần mềm lớn như Bangalore và Pune.
  • Giai đoạn 4: Ngành công nghiệp phần mềm hiện đang trong giai đoạn này với nhiều công ty Ấn Độ sở hữu tài sản trí tuệ tại Ấn Độ và kiếm tiền bản quyền từ các công ty toàn cầu.

Các khu công nghệ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm ở Ấn Độ với ngành công nghiệp phần mềm đóng góp 5,4% GDP của Ấn Độ năm 2006, tăng từ 4,8% trong giai đoạn trước đó. Dự kiến tăng trưởng của lĩnh vực CNTT-ITES của Ấn Độ (bao gồm cả mảng nội địa và xuất khẩu) là 28% trong năm tài chính 2007 với doanh thu dự kiến vượt 47,8 tỷ USD (NASSCOM 2007).

4. Một số gợi ý cho các khu công nghệ cao tại Việt Nam

Hiện nay, ở Việt Nam có 4 khu công nghệ cao đang hoạt động bao gồm: Khu công nghệ cao quận 9 TP.HCM, Khu công nghệ cao Hoà Lạc, Khu công nghệ cao Quang Trung và Khu công nghệ cao Đà Nẵng. Với mục tiêu phát triển thành một đô thị khoa học công nghệ, có vai trò thúc đẩy mạnh mẽ nền tảng kinh tế, những khu công nghệ cao này đã và đang chứng minh tầm quan trọng của mình trong sự phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam.

Sau đây là một số gợi mở cho Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển các khu công nghệ cao.

  1. Cần xác định mục tiêu nghiên cứu, làm chủ công nghệ và phát triển các lĩnh vực công nghệ cao thuộc Danh mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển. Các doanh nghiệp, trường đại học và các viện nghiên cứu cần được ưu tiên hỗ trợ phát triển về vốn và khoa học công nghệ hơn nữa.
  2. Tiếp tục xác định mục tiêu nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao nhằm gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp công nghệ cao, tăng tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao vào tổng giá trị sản xuất.
  3. Kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghệ cao là rất lớn, tuy nhiên, ngân sách nhà nước thường cấp chậm, dàn trải, chưa bố trí vốn kịp thời để xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng. Trong khi đó, chưa có chính sách phù hợp để thu hút các nguồn vốn xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng các khu chức năng.

Kết luận

Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của cả hai loại hình công viên này là vai trò xúc tác của Chính phủ Ấn Độ đã cung cấp một mô hình khuyến khích sự hợp tác giữa khu vực tư nhân, nhà nước và nước ngoài. Mô hình kinh doanh này đã thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài bằng chứng là số lượng các công ty đa quốc gia ở Ấn Độ ngày càng phát triển trong thập kỷ qua. Mô hình công viên cũng đã và đang thu hút các doanh nhân trong nước cả trong lĩnh vực công nghiệp phần mềm và công nghệ sinh học.

Tiếp tục các chính sách ủng hộ công nghệ của mình, Cục Công nghệ Thông tin (DIT), Bộ Truyền thông & Công nghệ Thông tin, phối hợp với Cục Công nghệ Sinh học (DBT), Bộ Khoa học và Công nghệ, hiện đang xem xét việc thành lập Bio -IT công viên để thúc đẩy các hoạt động trong ngành CNTT-Sinh học, trong đó các ứng dụng CNTT được sử dụng trong Khoa học Đời sống (STPI).

Trong khi các khu công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của lĩnh vực phần mềm ở Ấn Độ, các yếu tố khác như chính sách kinh tế thuận lợi bao gồm miễn thuế, sẵn sàng cung cấp lao động có tay nghề cao và nhu cầu toàn cầu về sản phẩm phần mềm cũng đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của những khu công nghệ này ở Ấn Độ. Điều quan trọng cần lưu ý là việc nhân rộng mô hình phát triển khu công nghệ cao của Ấn Độ ở các nước đang phát triển khác sẽ yêu cầu phân tích cẩn thận về sự sẵn có của các yếu tố khác này ở mỗi quốc gia.

 

Tài liệu tham khảo

Aradhna Aggarwal (2009). The STPI scheme and Competitiveness of India’s IT industry: Historical Analysis and a Future Outlook. http://fgks.in/images/pdf/papers/99.pdf

Arun, M. (2013). Innovations in an Emerging Software Cluster. In Driving the Economy through Innovation and Entrepreneurship (pp. 499-509). Springer, India.

Das, D. (2015). Hyderabad: Visioning, restructuring and making of a high-tech city. Cities, 43, 48-58.

ESCAP (2018). Establishing Science and Technology Parks:
A Reference Guidebook for Policymakers in Asia and the Pacific. ST/ESCAP/2862

Ministry of Electronics & Information Technology, Government of India (2021). STPI. https://www.meity.gov.in/content/stpi, truy cập ngày 5/5/2021

UNCTAD (2017). Information Economy Report 2017: Digitalization, Trade and Development. Sales No. E.17.II.D.8.

Harshitha Satish and Ksheeraja Satish. 2021. Green City: A Case-Study of Chennai. International Journal of Policy Sciences and Law Volume 1, Issue 4.

Sheng-hui, W. W. Z. (2011). A Study on the Environment and Model of Investment and Financing of Bangalore Software Technology Park in India [J]. Asia-pacific Economic Review, 1.

STPI. (2021). https://www.stpi.in

National Association of Software and Service Companies (NASSCOM) (2007). Indian IT Industry Fact- sheet. http://www.nasscom.in/upload/5216/Indian_IT_Industry_Factsheet_Feb2007.pdf.(18/3/2021)



Print Feedback Send Email
Other news:
  • Hoạt động kinh tế qua biên giới của Ấn Độ với các nước láng giềng: Trường hợp với Myanmar (08/07/2021)
  • Ứng dụng y học cổ truyền Ấn Độ (Ayurveda) trong sử dụng thảo mộc để phòng và điều trị bệnh (08/07/2021)
  • Xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang thị trường Ấn Độ 5 tháng đầu năm 2021: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp (30/06/2021)
  • Triển vọng kinh tế Ấn Độ hậu COVID19 (28/05/2021)
Các tin đã đưa ngày:

BẢN QUYỀN VIỆN NGHIÊN CỨU ẤN ĐỘ VÀ TÂY NAM Á - VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Giấy phép số 197/GP-BC do Bộ VHTT cấp ngày 27/10/2005

Địa chỉ: Tầng 7, Tòa nhà VASS, Số 1 - Liễu Giai - Ba Đình - Hà Nội

Điện thoại: 24.62730749 Email: vniisas@gmail.com | tcnc.andovachaua@gmail.com.

 

Visited: